Chuyển đến nội dung chính

RPG – Wikipedia tiếng Việt


RPG, được dùng để chỉ loại súng phản lực chống tăng nhỏ dùng cá nhân, thường bắn tên lửa không điều khiển.

RPG là sự chuyển tự của РПГ trong tiếng Nga sang ký tự Latin; РПГ là viết tắt của ручной противотанковый гранатомёт, có nghĩa là "súng phóng lựu chống tăng xách tay" [1], (nhưng một số người lại cho đó là viết tắt của реактивный противотанковый гранатомёт, tức "súng phóng lựu chống tăng phản lực").

Thông thường RPG chỉ dùng để chỉ một loại vũ khí chống tăng của Liên Xô cũ, được vác vai hay cầm tay. Các thiết kế của RPG phần lớn dựa trên các loại súng chống tăng của các nước khác được gọi với các tên khác như:


Ngoài ra, những súng phản lực chống tăng lớn hơn của Nga là SPG. SPG thường dùng cơ chế phóng phức tạp hơn.





RPG dùng phương pháp phản lực, liều nổ phóng trong nòng tạo áp suất cao đẩy đầu đạn đi. Không như các súng có nòng bịt kín giật mạnh, RPG không giật do không bịt đáy nòng. Một số súng sử dụng thuật phóng của đại bác không giật là "pháo phản lực khí động" (dynamic reaction cannon). Thuật phóng này phức tạp nhưng hiệu quả tạo vận tốc đầu nòng lớn. RPG-2 có thuật phóng trong nòng đơn giản, dùng thuốc nổ đen trong một ống hình trụ trơn dài đường kính 40 mm. RPG-7 phình to nòng ra, áp suất không tăng đột ngột, dùng thuốc súng không khói có cánh quạt làm đạn quay trong nòng. Sơ tốc đầu đạn làm đạn giảm tản mát, nhưng tăng sơ tốc gây tiếng nổ mạnh ảnh hưởng đến người bắn, và tăng khối lượng súng đạn.

RPG có tên lửa tăng tốc, ví dụ RPG-7V ra khỏi nòng với vận tốc 120 m/s, được tên lửa đẩy lên vận tốc 300 m/s. Người ta phải thiết kế sao cho luồng phụt của tên lửa không ảnh hưởng đến người bắn. Vận tốc cao của tên lửa giúp nó đi xa, chính xác và xuyên qua các vật cản.

Đầu xuyên của RPG dạng liều nổ lõm (HEAT). Đầu đạn RPG-7V điểm hỏa điện, có chóp đạn chắc chắn và dao cắt bằng thép cứng, điều đó giúp nó đi xuyên qua các vật cản, điểm hỏa đúng khoảng cách với giáp thép. Các đầu nổ hiện đại của Nga và Đức dùng hai tầng chống ERA. Cũng có những đầu đạn cháy và đạn chống bộ binh.

RPG có tầm bắn hiệu quả rất thấp so với tầm bắn tối đa. RPG-7V có tầm bắn tối đa 900 mét, nhưng tầm bắn hiệu quả 250 mét, tầm bắn ghi trên thước ngắm 500 mét. Điều này cũng giống như đại bác nòng dài chống tăng.

RPG có luồng phụt sau súng rất mạnh, không được đứng sau súng và không được bắn trong buồng kín. Cũng có những loại RPG thiết kế để bắn trong buồng hẹp như Armbrust ("Crossbow") của Đức, một số RPG dùng một lần như M-72 LAW của Mỹ hay AT4 M136 của Thụy Điển khắc phục nhược điểm nạp đạn lâu.

RPG cho phép một người lính mang nhẹ bắn hỏng được xe tăng hạng nặng ở khoảng cách khá xa, điều mà trước đó chỉ thực hiện được bằng đại bác nòng dài nặng nề.



Người Nga bắt đầu chế tạo RPG sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trước chiến tranh, họ là nước đầu tiên chế tạo thành công đại bác không giật SPG dưa vào trang bị thật sự Model 1935 76 mm DRP thiết kế bởi L.V. Kurchevski (loại đại bác này đã trở thành thủy tổ của các đại bác không giật hiện đại). Tuy nhiên, đại bác không giật chưa trở thành vũ khí chống tăng cầm tay dùng cá nhân. Trong chiến tranh, người Nga sản xuất các lựu đạn chống tăng mang đầu nổ lõm (kiểu 1940), nhưng lựu đạn này tầm quá gần. Panzerfaust của Đức dùng rất hữu hiệu, đã gợi ý cho người Nga phát triển RPG. Mẫu được ưa chuộng là Panzerfaust-44 đã thật sự là một RPG với tên lửa đẩy. Người Nga cải tiến, cho ra RPG-2 năm 1949 (tên của vũ khí này tại Việt Nam là B40). Sau đó là RPG-7 năm 1958 và RPG-7V năm 1961 (tên tại Việt Nam là B41).

RPG-7V được thiết kế cùng tên lửa chống tăng có điều khiển 9M14 (tên phương Tây AT-3). Tổ chiến đấu dùng tên lửa có điều khiển mang theo RPG, linh hoạt, bắn được tầm gần. Trong Chiến tranh Việt Nam, một số lượng lớn xe tăng và các xe quân sự khác bị diệt bởi RPG. Xe cộ, nhất là xe tăng, trước đây rất dễ bị RPG phục kích. Người Ai Cập bố trí xen kẽ RPG và AT-3 chỉ trong vài ngày tiêu diệt 800 xe quân sự của Israel, trong đó có toàn bộ xe tăng ở Sinai[2]. Trước đây, để có hiệu quả, người ta thường bố trí vài khẩu RPG lần lượt bắn từ nhiều hướng, bắn rất gần, nhắm vào những vị trí huyệt xe như ổ đỡ tháp pháo hoặc sau xe. Việc bắn lần lượt giảm nguy hiểm cho các xạ thủ, vì nạp đạn lâu, nếu không bắn hỏng xe.

Trong Chiến tranh Afghanistan xuất hiện các phương tiện chống RPG hữu hiệu như ERA và APS của xe tăng, làm giản đáng kể thiệt hại cho xe tăng. Riêng loại Drozd ở chiến tranh này bắn chặn gần hết đạn RPG ở phía trước. Từ đó có chiến thuật của du kích bắn dồng loạt nhiều viên một lúc để hạn chế APS. Tuy nhiên, đến thời điểm này giáp chính của các xe tăng rất dày và có thêm giáp liên hợp, ERA, đã hạn chế những RPG đời cũ như RPG-7V, RPG-2 nhưng làm nổi lên những RPG đời mới với hai tầng đầu nổ hạng nặng: RPG-29 có thể xuyên 600 mm thép cán sau ERA.

Trong Chiến tranh Chechnya lần thứ hai, các RPG cũ đã khó có thể xuyên ngang xe tăng hiện đại. Một vài chiếc T-80 bị bắn từ trên nóc xe trong các trận chiến đường phố và hẻm núi.

Trong Chiến tranh Iraq năm 2003, xe tăng hiện đại vẫn tiếp tục bị bắn từ RPG cổ, như trận xe tăng Mỹ đột kích hướng tây nam vào sân bay Baghdad, người Iraq không hề có RPG hiện đại vẫn bắn cháy xe tăng M1A1. Sau chiến tranh, nhiều xe bị du kích bắn cháy, kể cả xe tăng M1A2, bằng nhiều vũ khí trong đó chủ yếu là RPG. Tuy nhiên số lượng xe tăng bị bắn hỏng vẫn có thể coi là ít.

Cuộc xunng đột giữa Israel và Liban năm 2006 diễn ra rất dữ dội, 22 xe tăng của Israel bị Hezbollah bắn hỏng bằng RPG. Mặc dù xe Merkava là xe giáp rất tốt và trang bị phương tiện chống đầu nổ lõm ERA, APS đủ bốn mặt. Có thể ở đây xuất hiện các RPG hiện đại.

RPG cũng bắn hạ cả máy bay, như tại Mogadishu, Somalia năm 1993 đã dược dựng thành phim Blackhawk Down. Du kích Afghannistan sử dụng ngòi tự hủy của đạn, bắn đồng loạt nhiều đạn, bắn diện tích sát thương bộ binh hay chống máy bay.



RPG đã trở thành thứ vũ khí diệt nhiều xe cộ nhất sau Chiến tranh thế giới thứ hai, buộc các cường quốc quân sự phải thay đổi chiến lược thiết kế và sử dụng xe tăng. RPG có thể sẽ dược thay thế bởi ATGM, nhưng nó luôn là thứ vũ khí hiệu quả, rẻ tiền, dễ chế tạo.




  1. ^ Theo:
    • Bách khoa cho thiếu niên, tập 14: Kỹ thuật, Nhà xuất bản Avanta, Nga, 1999, tr. 494

    • Từ điển Kỹ thuật quân sự, Viện Kỹ thuật quân sự-Cục khoa học quân sự xuất bản, 1990, tr. 240, tr. 419

    • НАСТАВЛЕНИЕ ПО СТРЕЛКОВОМУ ДЕЛУ. РУЧНОЙ ПРОТИВОТАНКОВЫЙ ГРАНАТОМЕТ (РПГ-7 и РПГ-7Д). Издание второе, дополненное. Ордена Трудового Красного. Знамени ВОЕННОЕ ИЗДАТЕЛЬСТВО МИНИСТЕРСТВА ОБОРОНЫ СССР. М О С К В А — 1 9 7 2

  2. ^ http://antg.cand.com.vn/vi-VN/hosomat/2007/3/61415.cand?SearchTerm=1973%20800




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

George W. Bush – Wikipedia tiếng Việt

George Walker Bush (còn gọi là George Bush (con) , sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946) là chính khách và tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ. Ông thuộc Đảng Cộng hoà và là thành viên của một gia đình có quyền thế ở nước Mỹ, Gia tộc Bush. Những chính khách của gia đình này gồm có: ông nội của ông (cố Thượng nghị sĩ Prescott Bush), cha của ông (cựu tổng thống George H. W. Bush), và em của ông (Jeb Bush, cựu thống đốc tiểu bang Florida). Trước khi bước vào chính trường rồi đắc cử tổng thống, Bush là một doanh nhân, hoạt động trong lãnh vực dầu mỏ và bóng chày chuyên nghiệp. Sau đó, George W. Bush đắc cử thống đốc thứ 46 của tiểu bang Texas vào năm 1994. Vào năm 2000 Bush được đảng Cộng hoà chọn làm ứng cử viên tổng thống và đã trở thành ông chủ Nhà Trắng sau khi đánh bại ứng cử viên Al Gore của đảng Dân chủ trong một cuộc bầu phiếu sít sao và đầy tranh cãi. Năm 2004, Bush tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai sau khi thắng Thượng nghị sĩ John Kerry của tiểu bang Massachusetts. George W. Bush và bố mẹ, năm 19

Deirdre Barlow - Wikipedia

Deirdre Barlow Nhân vật đăng quang nhân vật Được miêu tả bởi Anne Kirkbride Thời gian 1972 ] Tập 1236 20/11/1972 Lần xuất hiện cuối cùng Tập 8486 8 tháng 10 năm 2014 Được giới thiệu bởi Eric Prytherch Xuất hiện sách Cuộc sống thời tiết Phố đăng quang: Saga hoàn chỉnh Deirdre: Một cuộc sống trên phố đăng quang [1] ] Spin-off xuất hiện Chuyện đi ngủ của Ken và Deirdre (2011) [2] Phân loại thông thường Hồ sơ Tên khác Deirdre Hunt Deirdre Langton Deirdre Rachid Nghề nghiệp Lễ tân y tế Trợ lý cá cược (2010) Hội đồng địa phương PA (2004 Tiết09) Trợ lý cửa hàng góc (2000 .03) Giám đốc nhà máy (1998 19659029] Quản lý văn phòng đại lý du lịch (1996 .9898) Trợ lý cửa hàng góc (1995 mật96) Người chăm sóc (1995) Trợ lý siêu thị (1994) [1994)19659029] Trợ lý cửa hàng góc (1993 Mạnh94) Cố vấn telesales (1991) Ủy viên hội đồng địa phương (1987 Tiết91) Trợ lý cửa hàng góc (1980 ) Thư ký (1973 Từ78) Nhà Quận Đỉnh (2014 Gi

Haifa – Wikipedia tiếng Việt

32°49′0″B 34°59′0″Đ  /  32,81667°B 34,98333°Đ  / 32.81667; 34.98333 Tọa độ: 32°49′0″B 34°59′0″Đ  /  32,81667°B 34,98333°Đ  / 32.81667; 34.98333 Haifa (tiếng Hebrew: חֵיפָה , Hefa ; tiếng Ả Rập: حيفا ‎, Ḥayfā ) là thành phố lớn nhất miền Bắc Israel, lớn thứ năm trên toàn quốc với dân số hơn 265.000 người và 300.000 người sống tại các tỉnh lân cận, trong đó có các thành phố như Krayot, Tirat Carmel, Daliyat al-Karmel và Nesher. Những khu vực này hợp lại thành một đô thị, nơi cư trú gần 600.000 dân, tạo nên phần lõi trung tâm của vùng đô thị Haifa. [1] [2] Haifa là một thành phố đa dân tộc, với hơn 90% dân số là người Do Thái, hơn 1/4 trong số đó là di dân từ Liên bang Xô Viết, 10% là người Ả Rập, chủ yếu theo đạo Cơ Đốc. [3] Thành phố này còn là nơi tọa lạc của Trung tâm Thế giới Baha'i, một Di sản thế giới được UNESCO công nhận. [4] [5] Được xây dựng trên sườn dốc của Núi Carmel, lịch sử định cư tại vùng đất này kéo dài hơn 3.000 năm. Sự định cư đầu tiên được biết đến thu